Đề xuất một số giải pháp thúc đẩy hoạt động thiết kế kiến trúc tham gia hoạt động phát triển công nghiệp văn hóa của Tp Đà Nẵng
1. Giới thiệu chung
Đà Nẵng là trung tâm kinh tế xã hội của khu vực các tỉnh Duyên hải Trung bộ, sở hữu hệ thống cơ sở hạ tầng về giao thông đồng bộ, hiện đại liên kết chặt chẽ với các vùng lân cận, là “cửa ngõ” chiến lược kết nối giữa hai đầu đất nước và quốc tế [1]. Từ khi trở thành TP trực thuộc Trung ương, Đà Nẵng được biết đến là một đô thị năng động, phát triển và đáng sống ở Việt Nam. Chính quyền thành phố (TP) Đà Nẵng xác định phát triển kinh tế – xã hội bền vững [2], bảo vệ môi trường và phát huy giá trị văn hóa hướng tới mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống cho cư dân hiện tại và tương lai.
Tranh thủ thời cơ của hội nhập quốc tế, sự phát triển khoa học công nghệ và nhu cầu khám phá của cư dân toàn cầu, Đà Nẵng nỗ lực xây dựng đô thị năng động, có bản sắc, là điểm đến hấp dẫn về văn hóa – nghệ thuật trong khu vực. Trong xu thế này, ngành công nghiệp văn hóa (CNVH) là lĩnh vực mũi nhọn, thúc đẩy giá trị, tạo nên nét riêng và bền vững.
Khái niệm “công nghiệp văn hóa” được UNESCO [3] giới thiệu “là các ngành sản xuất ra các sản phẩm vật thể và phi vật thể về nghệ thuật và sáng tạo, có tiềm năng thúc đẩy việc tạo ra của cải và thu nhập thông qua việc khai thác các giá trị văn hóa và sản xuất các sản phẩm dịch vụ dựa vào tri thức (kể cả những giá trị văn hóa hiện đại và truyền thống)” 1. Có thể chia thành các nhóm ngành chính; (i) Nghe nhìn và truyền thông (phim, âm nhạc, truyền hình, nội dung số, trò chơi điện tử, quảng cáo…); (ii) Xuất bản và văn học (sách, báo, tạp chí, xuất bản kỹ thuật số…); (iii) Nghệ thuật thị giác và biểu diễn (mỹ thuật, điêu khắc, thủ công mỹ nghệ, thời trang, nội thất, đồ họa, kiến trúc, sân khấu, lễ hội…) ; (iv) Di sản và bảo tàng (các hoạt động bảo tồn, trưng bày, triển lãm, khai thác di tích, di sản vật thể và phi vật thể…); (v) Phân phối và tiếp thị sản phẩm văn hóa. Hoạt động CNVH tạo nguồn thu đáng kể, gia tăng tỷ trọng kinh tế ngoài công nghiệp, nông nghiệp để đóng góp vào tăng trưởng kinh tế xã hội TP.
Dịch vụ thiết kế kiến trúc là lĩnh vực chuyên môn cung cấp giải pháp sáng tạo và khoa học bao gồm các lĩnh vực Thiết kế kiến trúc tổng thể; Quy hoạch kiến trúc đô thị; Thiết kế nội thất và cảnh quan; Quản lý dự án kiến trúc và Tư vấn chiến lược, cải tạo và bảo tồn công trình. Khai thác và nâng cao chất lượng dịch vụ thiết kế kiến trúc có vai trò rất lớn trong phát triển CNVH, nhất là sự tham gia của nhiều thành phần.
Bài báo mong muốn nghiên cứu và đề xuất các giải pháp đưa dịch vụ thiết kế kiến trúc thành động lực, tham gia sâu vào phát triển CNVH tại TP Đà Nẵng.
2. Thực trạng và vai trò của dịch vụ thiết kế kiến trúc trong phát triển CNVH
2.1. Thực trạng ở Việt Nam và trên thế giới
Ngành CNVH đang ngày càng khẳng định vị thế quan trọng trong nền kinh tế hiện đại. Tại Đà Nẵng, hoạt động khai thác các dịch vụ thiết kế kiến trúc trong phát triển CNVH đang dần được nhận thức rõ nhưng chưa phát huy hết tiềm năng [4]. Cụ thể như các công trình kiến trúc công cộng, nhà ở trên địa bàn TP2 vẫn chưa chú trọng khai thác bản sắc địa phương, hoạt động và khai thác giá trị văn hóa của di sản ở Đà Nẵng chưa tạo ra không gian thực sự thúc đẩy và tôn vinh giá trị văn hóa bản địa.
Ngành CNVH có phạm vi rộng, đa sản phẩm và lĩnh vực chủ yếu xoay quanh yếu tố sáng tạo và khai thác giá trị văn hóa5. Chính phủ Việt Nam xác định CNVH là lĩnh vực tiềm năng và nỗ lực xây dựng các dòng sản phẩm văn hóa đặc thù như điện ảnh, thủ công mỹ nghệ , du lịch văn hóa – di sản để tăng sức hút quốc tế những chưa thật sự đạt được những kết quả như mong muốn [5] [6] [7].
Trong khi đó, các nước phát triển từ lâu đã xây dựng chính sách hỗ trợ CNVH như: Quỹ sáng tạo, ưu đãi thuế, khuyến khích hợp tác quốc tế, phát triển giáo dục nghệ thuật, nghiên cứu và đổi mới sáng tạo… đồng thời khai thác hiệu quả công nghệ số, nền tảng trực tuyến giúp mở rộng quy mô thị trường, quảng bá sản phẩm văn hóa ra toàn cầu. Nhiều quốc gia thành công và xây dựng được các thương hiệu văn hóa như K-pop (Hàn Quốc), anime – manga (Nhật Bản), Hollywood (Mỹ) trở thành nguồn thu khổng lồ [8] và lan tỏa văn hóa ra thế giới . Điều này cho thấy: CNVH không chỉ là công cụ “mềm” để nâng cao hình ảnh thương hiệu đô thị, mà còn trực tiếp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và định hình bản sắc văn hóa đô thị.
2.2. Thiết kế kiến trúc và giá trị nhận diện trong lĩnh vực CNVH
Trong lĩnh vực CNVH, kiến trúc trở thành “ngôn ngữ” biểu đạt nội dung văn hóa, truyền tải thông điệp lịch sử, bản sắc, ý tưởng sáng tạo và tinh thần thời đại… Một công trình kiến trúc khai thác tốt các đặc điểm trên dễ trở thành yếu tố tạo thị, điểm nhấn, điểm nhận diện trên bản đồ du lịch. Công trình đó trở thành điểm văn hóa làm tôn giá trị nghệ thuật, giúp công chúng ghi nhớ, kết nối cảm xúc… hình thành nên bản sắc, tạo dựng “thương hiệu” đặc trưng và ấn tượng.
Mặt khác, công trình di sản, di tích lịch sử – văn hóa là nguồn tài nguyên quý, là điểm tựa cho sáng tạo, phát triển CNVH. Khai thác các di sản kiến trúc: Thành lũy, đình, chùa, nhà cổ, bảo tàng chuyên đề… tạo ra nguồn cảm hứng để các KTS, nhà thiết kế tiếp tục sáng tạo thêm nhiều tác phẩm, sản phẩm mới. Do đó, sự kiện nghệ thuật gắn với di sản sẽ hình thành hệ sinh thái CNVH đa dạng và hấp dẫn trong phát triển đô thị.
Đà Nẵng sở hữu nhiều công trình kiến trúc đặc sắc di sản văn hóa – lịch sử, không gian cảnh quan công cộng, dự án hiện đại… phục vụ du lịch (cầu Rồng, nhà hát Trưng Vương, Bảo tàng Chăm, Tượng Cá chép hóa Rồng, các khu nghỉ dưỡng ven biển…) đã bước đầu tạo dựng nên hình ảnh một đô thị văn minh, sáng tạo đó.
2.3. Khai thác và tạo lập thêm các công trình tham gia vào lĩnh vực CNVH
Đầu tư xây dựng mới hoặc cải tạo các công trình kiến trúc văn hóa – nghệ thuật trong đô thị, góp phần gia tăng giá trị cho CNVH. Nhiều hoạt động như: (i) Thiết kế không gian sáng tạo: Phòng trưng bày, khu hội thảo, workspace… dành cho nghệ sĩ, nhà thiết kế, nhà văn hóa sẽ thúc đẩy hoạt động sáng tạo của họ. Từ đó, kiến trúc tạo điều kiện để CNVH phát triển, đa dạng và phong phú, có thêm cơ hội kết nối; (ii) Yếu tố gắn kết bản sắc địa phương cũng cần có sự quan tâm thích đáng. Đòi hỏi khi thực hiện xây dựng mới công trình hoặc chỉnh trang đô thị cần tôn trọng yếu tố lịch sử, văn hóa bản địa, chất liệu địa phương… giúp công trình kiến trúc có khả năng gợi mở cảm xúc và khơi dậy niềm tự hào văn hóa. (iii) Ứng dụng công nghệ và tính bền vững, chú trọng thiết kế xanh, kinh tế tuần hoàn… theo định hướng phát triển đô thị bền vững.
Như vậy, khai thác và phát triển các công trình kiến trúc trong CNVH không chỉ giải quyết về công năng, thẩm mỹ, mà còn tạo lập nên giá trị bản sắc, phát huy các giá trị riêng, sợi dây kết nối quá khứ – hiện tại – tương lai [9]. Có như vậy, kiến trúc tham gia vào CNVH được hiểu như đóng góp vào hệ sinh thái đô thị đảm bảo cân bằng các giá trị. Điều này sẽ bảo đảm CNVH vừa góp phần tăng trưởng kinh tế, vừa xây dựng và phát huy nền tảng văn hóa, vừa giữ gìn và tôn tạo các yếu tố môi trường.
2.4. Đánh giá thuận lợi, khó khăn, thách thức trong khai thác CNVH
Mục tiêu phát triển đô thị trong kỷ nguyên Công nghiệp 4.0, thì lựa chọn đô thị thông minh trở thành xu thế chủ đạo. Đô thị thông minh giúp công tác quản lý ngày càng hiệu quả, khai thác tốt sẽ có nhiều đóng góp cho CNVH bằng cách tạo ra các sản phẩm dịch vụ sáng tạo, ấn tượng, và giàu bản sắc, gia tăng năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc gia và quốc tế. Thêm vào đó, yếu tố toàn cầu hóa và công nghệ số hiện nay là cơ hội thuận lợi để CNVH phát triển vượt trội.
Tuy nhiên, Đà Nẵng với tiềm năng địa lý, bản sắc văn hóa, hạ tầng và các điều kiện hiện có, hoạt động CNVH có thể phát triển hiệu quả hơn nữa, nhất là việc huy động sự tham gia của cộng đồng, ứng dụng công nghệ, xây dựng chính sách và hợp tác quốc tế. Có thể thấy, cần thiết xây dựng chiến lược cụ thể và toàn diện về việc biến kiến trúc thành hạt nhân thúc đẩy CNVH là rất cần thiết trong bối cảnh hiện nay [10] [11].
3. Giải pháp đưa dịch vụ thiết kế kiến trúc trở thành động lực trong phát triển CNVH
Với các phân tích ở trên, một số giải pháp cụ thể nhằm đưa dịch vụ thiết kế kiến trúc trở thành động lực trong phát triển CNVH trên địa bàn TP Đà Nẵng như sau:
3.1. Xây dựng chiến lược và cơ chế hỗ trợ dài hạn
Cần xác định việc xây dựng chiến lược tổng thể với cơ chế hỗ trợ dài hạn là nền tảng quan trọng giúp dịch vụ thiết kế kiến trúc trở thành động lực tham gia sâu vào chuỗi giá trị CNVH. Chiến lược từ cấp TP về vấn đề này giúp định hướng rõ mục tiêu, lộ trình và nhiệm vụ cụ thể cho các bên liên quan, là căn cứ pháp lý để điều chỉnh quy hoạch, phân bổ ngân sách, xây dựng cơ chế ưu đãi, thu hút đầu tư và xác lập thương hiệu văn hóa – kiến trúc đặc trưng.
Mặt khác, cần nghiên cứu và ban hành các cơ chế hỗ trợ về thuế, lãi suất cho vay ưu đãi tạo động lực thu hút doanh nghiệp, nhà đầu tư rót vốn vào các dự án kiến trúc mang yếu tố văn hóa sáng tạo. Các chính sách hỗ trợ này giúp kiến trúc thực sự trở thành một động lực quan trọng trong chuỗi giá trị CNVH và khẳng định vai trò “hạt nhân” trong phát triển CNVH.
3.2. Xây dựng và tạo lập môi trường hợp tác đa ngành
Việc xây dựng môi trường hợp tác đa ngành là hết sức quan trọng để dịch vụ thiết kế kiến trúc trở thành động lực phát triển CNVH. Môi trường này đòi hỏi công tác phối hợp và tổ chức chuyên nghiệp (bộ phận điều phối, cơ chế vận hành rõ ràng, quy chế thành viên, đảm bảo tính minh bạch, công bằng trong phân chia cơ hội, lợi ích…).
Khi xây dựng môi trường này, cần xác định sản phẩm cụ thể để đặt hàng tạo lập trong không gian đô thị là tạo ra các công trình kiến trúc – văn hóa đa dạng, phức hợp; lễ hội, sự kiện văn hóa – kiến trúc bản sắc; sản phẩm nội thất, ngoại thất riêng biệt và có yếu tố sáng tạo và đặc trưng; dịch vụ số như phần mềm, ứng dụng hỗ trợ thiết kế và trải nghiệm văn hóa thu hút được nhiều người quan tâm và tạo thêm nhiều không gian công cộng khu “vườn nghệ thuật” ngoài trời, phố đi bộ văn hóa với kiến trúc sắp đặt… Qua nghiên cứu, nhiều sản phẩm hình thành từ việc hoạt động của mạng lưới này tại các TP phát triển và có thể ứng dụng vào TP Đà Nẵng như mô hình
3.3. Nâng cao năng lực đội ngũ chuyên gia và hành nghề kiến trúc
Đào tạo nguồn nhân lực luôn được xác định là xu hướng chính trong mọi lĩnh vực để hướng đến sản phẩm có chất lượng. Việc đào tạo thông qua các hội thảo CPD hoặc hoạt động nghề nghiệp chuyên môn do Hội KTS Việt Nam tổ chức sẽ hỗ trợ tạo nên các điều kiện thuận lợi trong phát triển dịch vụ kiến trúc.
Muốn như vậy, cần có các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nghệ sĩ, nhà quản lý văn hóa có khả năng phối hợp với KTS, nhà thiết kế, người dân và ngược lại. Cụ thể như giảng dạy cơ bản về kiến trúc, cùng thực hành các dự án chung, tổ chức nhiều hội thảo, seminar chuyên đề để các thành phần thiết kế, thụ hưởng và quản lý có cơ hội hiểu rõ hơn về nhu cầu, điều kiện và mục tiêu; tổ chức kết nối hoạt động triển lãm, chia sẻ kinh nghiệm về quy trình hợp tác, gửi nghệ sĩ, nhà quản lý văn hóa, KTS tham gia các dự án nước ngoài để học hỏi các mô hình.
3.4. Chiến lược khai thác bản sắc địa phương và ứng dụng vào kiến trúc
Văn hóa Đà Nẵng gắn với lễ hội, ẩm thực, làng nghề, văn hóa biển… khai thác hay xác lập bản sắc văn hóa là một quá trình phức tạp, liên tục và yêu cầu sự tham gia của nhiều bên liên quan. Quá trình này đòi hỏi sự am hiểu về môi trường tự nhiên, đặc điểm văn hóa, phong tục tập quán với các giá trị cốt lõi; đồng thời tranh thủ sự tham gia của cộng đồng, giới chuyên môn để xác định các tiêu chí bản sắc của đô thị Đà Nẵng. Thông qua các tiêu chí đó, thực hiện công tác quảng bá, đào tạo bồi dưỡng, truyền thông để nâng cao nhận thức của người dân nhất là đối tượng KTS, nhà thiết kế sáng tạo, người trực tiếp thực hiện các sản phẩm và người dân, du khách thụ hưởng có thêm ý tưởng và khai thác nguồn cảm hứng từ di sản bản địa, kết hợp yếu tố hiện đại – công nghệ, tạo thành ngôn ngữ kiến trúc đặc trưng của Đà Nẵng. Tuy nhiên, cần cân nhắc và thực hiện thí điểm từng phần, thực hiện đánh giá và tiếp thu các ý kiến từ cộng đồng để tiếp tục nâng cao chất lượng thiết kế, bảo đảm tính bền vững, nhất là việc lồng ghép bản sắc vào quy hoạch đô thị, bộ tiêu chí thiết kế, tiêu chuẩn xây dựng rất quan trọng.
Nghiên cứu và xây dựng bản sắc kiến trúc cho Đà Nẵng hay bất kỳ đô thị nào đòi hỏi một chiến lược dài hạn, hợp tác đa ngành, tôn trọng và am hiểu văn hóa địa phương, cùng với sự hỗ trợ từ chính sách, cộng đồng và cam kết bền vững.
3.5. Thúc đẩy các hoạt động xây dựng không gian kiến trúc phục vụ CNVH
Việc xây dựng không gian kiến trúc chuyên biệt nhằm phục vụ CNVH là một trong những giải pháp quan trọng, giúp đô thị định vị thương hiệu văn hóa, nâng cao chất lượng trải nghiệm nghệ thuật, đồng thời kích thích đổi mới sáng tạo, gia tăng giá trị kinh tế – xã hội. Nghệ thuật công cộng giúp làm đẹp cảnh quan, tạo điểm nhấn văn hóa, khơi gợi sự tương tác xã hội, nâng cao nhận thức cộng đồng về nghệ thuật, thúc đẩy du lịch và tạo ra môi trường sống sáng tạo, cởi mở.
Mô hình này đã được các quốc gia phát triển khai thác tốt và tạo hiệu ứng trong phát huy vai trò của dịch vụ kiến trúc vào phát triển CNVH [12].
Các không gian này có chức năng khởi tạo ý tưởng và sản phẩm sáng tạo, là nơi ươm mầm ý tưởng, hỗ trợ nghệ sĩ, nhà thiết kế, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo. Cũng là nơi giao lưu, trao đổi thông tin và hợp tác đa ngành, qua đó, thiết lập hệ sinh thái sáng tạo gắn liền với CNVH. Đà Nẵng cũng đã thực hiện và tạo ra các sản phẩm hữu hiệu được xem là bản sắc Đà Nẵng [13]: Cầu Rồng, Cầu Vàng ở Bà Nà Hills, Tượng Cá Chép hóa Rồng và bến du thuyền sông Hàn, Bảo tàng Điêu khắc Chăm; Asia Park (Công viên Châu Á) với Sun Wheel… cho thấy giá trị của các không gian kiến trúc và nghệ thuật công cộng góp phần xây dựng thương hiệu là rất lớn.
3.6. Đẩy mạnh các mối quan hệ hợp tác quốc tế
Hợp tác quốc tế mở ra cơ hội tiếp cận công nghệ, ý tưởng mới, học hỏi mô hình quản lý, xu hướng thiết kế, chiến lược phát triển CNVH. Đà Nẵng đã học và đạt được những thành tựu cụ thể như: Quy hoạch không gian xanh, sạch, văn minh, tích hợp hạ tầng thông minh trong kiến trúc đô thị (học từ Singapore); tạo không gian sáng tạo, kết nối kiến trúc – thời trang – nghệ thuật (học từ Seoul -Hàn Quốc); cân bằng giữa bảo tồn di sản và phát triển hiện đại, tạo nên đô thị đa lớp văn hóa (học từ Tokyo – Nhật Bản); khai thác du lịch văn hóa, nghệ thuật, thiết kế không gian ven sông, kênh rạch, tạo điểm nhấn sinh thái (học từ Amsterdam – Hà Lan)… Bên cạnh đó, thúc đẩy sự tham gia của KTS, nhà thiết kế quốc tế trong các sự kiện, hội thảo, giao lưu văn hóa kiến trúc, nâng cao chất lượng sản phẩm CNVH và góp phần phát triển kinh tế – xã hội bền vững cho TP Đà Nẵng.
3.7. Tăng cường kết nối kiến trúc với du lịch văn hóa
Việc xem kiến trúc như một sản phẩm du lịch văn hóa không chỉ dừng lại ở việc ngắm cảnh, mà còn bao hàm quá trình tiếp cận chiều sâu văn hóa, lịch sử, và xã hội của địa phương. Khi một công trình kiến trúc được thiết kế hoặc cải tạo dựa trên bản sắc địa phương, tính độc đáo của nó sẽ hấp dẫn du khách khám phá và tương tác.
Để kiến trúc thật sự trở thành một thành phần năng động trong CNVH, một số hoạt động cần quan tâm như tổ chức Festival kiến trúc: Trưng bày các mô hình, ý tưởng thiết kế sáng tạo, tổ chức hội thảo chuyên đề về Đà Nẵng; tuần lễ thiết kế: Tổ chức các sự kiện kết nối doanh nghiệp sản xuất trong lĩnh vực kiến trúc và văn hóa, vật liệu địa phương; Hội chợ nghệ thuật và triển lãm quốc tế: tạo môi trường giao lưu văn hóa, thúc đẩy hợp tác quốc tế về kiến trúc – nghệ thuật. Những nỗ lực này sẽ tạo ra hiệu ứng cộng hưởng, thúc đẩy Đà Nẵng trở thành một đô thị văn minh, sáng tạo, điểm đến du lịch văn hóa.
3.8. Cơ chế giám sát, đánh giá và phát triển bền vững
Để đảm bảo việc triển khai chiến lược phát triển kiến trúc gắn với CNVH đạt hiệu quả cao, bền vững và phù hợp với kỳ vọng của cộng đồng, cần có cơ chế giám sát, đánh giá chặt chẽ cùng tầm nhìn dài hạn. Đồng thời thực hiện các phương pháp khảo sát, đánh giá và tham vấn ý kiến cộng đồng bằng việc khuyến khích người dân, du khách, giới phê bình, các học giả tham gia đóng góp ý kiến. Điều này giúp nắm bắt nhu cầu, nguyện vọng thực tế, đồng thời nhận diện những hạn chế cần khắc phục. Từ đó có những điều chỉnh linh hoạt, kịp thời về thiết kế, chức năng, nội dung trưng bày, dịch vụ bổ trợ, nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu thị trường, xu hướng tiêu dùng văn hóa, và bảo đảm tính phù hợp, bền vững cho công trình.
4. Kết luận
TP Đà Nẵng đang trên đà phát triển mạnh mẽ, hướng đến xây dựng một đô thị thông minh, văn minh và bền vững. Vai trò của thiết kế kiến trúc trong việc định hình bản sắc đô thị, nâng cao chất lượng không gian sống là rất cần thiết, góp phần khẳng định giá trị văn hóa, nghệ thuật và nâng tầm thương hiệu TP.
Ứng dụng CNVH trong phát triển đô thị trên thế giới là xu hướng không thể đảo ngược. Nhiều đô thị thành công đã chứng minh rằng, khi kiến trúc gắn liền với văn hóa – nghệ thuật, không gian đô thị trở thành tài nguyên sáng tạo vô giá, tạo nên dấu ấn riêng, góp phần thu hút du khách, nhà đầu tư, nghệ sĩ và doanh nghiệp.
Với các giải pháp đề xuất đưa dịch vụ thiết kế kiến trúc trở thành động lực trong phát triển CNVH của TP Đà Nẵng, chính quyền TP tiếp tục nghiên cứu và xác lập ngay chiến lược phát triển, tạo môi trường hợp tác đa ngành, khai thác bản sắc, phát triển không gian cộng đồng gắn với hoạt động văn hóa và làm tốt công tác giám sát, đánh giá chất lượng dịch vụ kiến trúc, dịch vụ văn hóa, du lịch và phát triển kinh tế xã hội.
KTS. Phan Bảo An
KTS. Hồ Lê Quốc Vũ
Hội KTS TP Đà Nẵng
(Bài đăng trên Tạp chí Kiến trúc số 02-2025)
Ghi chú
1. Hải Anh, Nhận diện các ngành CNVH Hà Nội trong bối cảnh mới, https://www.tapchicongsan.org.vn 16/11/2023
2. Quyết định số 1755/QĐ-TTg ngày 08/9/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành CNVH Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
3. Liên hoan phim quốc tế Hà Nội,
4. Làng gốm Bát Tràng, tranh Đông Hồ, Hội An, Huế, Tràng An
5. Tại Anh, ngành CNVH đóng góp khoảng 6-7% GDP, tạo hàng triệu việc làm, xây dựng hình ảnh quốc tế tích cực và thúc đẩy du lịch, đầu tư, trao đổi sáng tạo, gia tăng sức mạnh mềm, và định vị quốc gia trên bản đồ văn hóa thế giới.
Tài liệu tham khảo
[1] TP Đà Nẵng, “Cổng thông tin điện tử UBND TP. Đà Nẵng:,” 02 12 2024. link: https://danang.gov.vn/.
[2] Chính phủ Việt Nam, “Nghị quyết số 43-NQ/TW ngày 24/01/20019 của Bộ Chính trị về “Xây dựng và phát triển TP Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”,” Chính phủ, Hà Nội, 2019.
[3] UNESCO, “UNESCO về di sản văn hóa, phát triển bền vững,” 05 12 2024. link: https://ich.unesco.org/.
[4] Chính phủ Việt Nam, “Quyết định số 1287/QĐ-TTg ngày 01 tháng 11 năm 2023 của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt Quy hoạch TP Đà Nẵng thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050,” Chính phủ, Hà Nội, 2023.
[5] Vũ Quang Hùng, “Quận Hải Châu – Mô hình về một khu trung tâm phức hợp hiện đại và giàu bản sắc.,” Tạp chí Kiến trúc, link: 04, pp. 64-67, 2021.
[6] Chính phủ Việt Nam, “Quyết định số 1755/QĐ-TTg ngày 08/9/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành CNVH Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.,” Chính phủ, Hà Nội, 2016.
[7] Chính phủ Việt Nam, “Quyết định số 1909/QĐ-TTg ngày 12/11/2021 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030,” Chính phủ, Hà Nội, 2021.
[8] Chính phủ Việt Nam, “Chỉ thị số 30/CT-TTg ngày 29/8/2024 của Thủ tướng Chính phủ về phát triển các ngành CNVH ở Việt Nam,” Chính phủ, Hà Nội, 2024.
[9] Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), “Nghiên cứu đóng góp kinh tế của ngành CNVH,,” 07 12 2024. link: https://www.wipo.int/.
[10] Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, “Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch,” 03 12 2024. link: https://bvhttdl.gov.vn/.
[11] TP Đà Nẵng, “Kế hoạch số 9585/KH-UBND ngày 24 tháng 11 năm 2017 của UBND TP Đà Nẵng thực hiện Quyết định số 1755/QĐ-TTg ngày 08/9/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành CNVH Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030,” UBND Đà Nẵng, Đà Nẵng, 2017.
[12] TP Đà Nẵng, “Kế hoạch số 133/KH-UBND ngày 19/7/2022 của UBND TP Đà Nẵng về triển khai thực hiện Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 trên địa bàn TP Đà Nẵng,” UBND Đà Nẵng, Đà Nẵng, 2022.
[13] UNESCO, “Mạng lưới các TP sáng tạo của UNESCO,,” 06 12 2024. link: https://en.unesco.org/creative-cities/.
[14] Viện Quy hoạch Xây dựng Đà Nẵng, “Viện Quy hoạch Xây dựng Đà Nẵng,,” 05 12 2024. link: http://www.dana-urenco.vn/.
[15] WEB:
– Thông tin về Sydney Opera House (Úc): https://www.sydneyoperahouse.com/
– Guggenheim Museum Bilbao (Tây Ban Nha): https://www.guggenheim-bilbao.eus/en
– Marina Bay Sands & Gardens by the Bay (Singapore): https://www.gardensbythebay.com.sg/
– The High Line (New York, Mỹ): https://www.thehighline.org/
– Federation Square (Melbourne, Úc): https://fedsquare.com/