Đầu tháng 3/2025, tin tòa nhà “Hàm cá mập” bên Hồ Gươm, Hà Nội sắp bị phá dỡ từ báo chí nhanh chóng lan ra và trở thành tâm điểm của dư luận. Ngay sau đó, cho tới nay, mỗi ngày nơi đây có tới hàng ngàn lượt người đến tòa nhà này, hay đứng ở dưới chân tòa nhà để cà phê, chụp ảnh check in, lưu niệm với một công trình sắp trở thành quá khứ, với nhiều nuối tiếc. Rõ ràng, một công trình, dù bị nhiều chê bai, đã vượt lên những định kiến để trở thành nơi chốn gắn bó quen thuộc của cộng đồng. Việc phá bỏ công trình này để xây công trình khác không phải là mới mẻ, cũng không phải lúc nào cũng êm xuôi thuận lợi. Từ tòa nhà “‘Hàm cá mập” cũng gợi nhiều suy nghĩ về số phận những công trình khác, trong khoảng thời gian đằng đẵng của thời cuộc.
“Trăm năm mấy cuộc bể dâu”…
Ngày 5/3/2025, Văn phòng UBND TP Hà Nội thông báo kết luận của Phó chủ tịch Dương Đức Tuấn về việc quy hoạch, tổ chức không gian kiến trúc cảnh quan khu vực Quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục, quận Hoàn Kiếm. Theo đó, TP tán thành chủ trương, phương án tổ chức không gian kiến trúc cảnh quan khu vực Quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục làm cơ sở nghiên cứu dự án đầu tư cải tạo, chỉnh trang, tái thiết.
Cụ thể, TP nhất trí với đề xuất phá bỏ tòa nhà “Hàm cá mập”, xây dựng không gian ngầm tại khu vực quảng trường hiện có và không gian mở rộng (sau khi phá bỏ tòa nhà “Hàm cá mập”). Khu vực ngầm có khoảng 3 tầng hầm với những chức năng dự kiến như không gian văn hóa, thương mại, bãi xe… Lối lên xuống tầng hầm từ vị trí giáp tuyến phố Đinh Liệt.
TP Hà Nội cho rằng: Quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục có giá trị lịch sử văn hóa cao, kết nối giữa khu Di tích Quốc gia đặc biệt Hồ Gươm (phía Bắc) với khu vực Di tích Quốc gia phố cổ (phía Nam). Việc quy hoạch, tổ chức không gian kiến trúc cảnh quan Quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục được thực hiện đồng thời với triển khai nghiên cứu, đầu tư xây dựng các không gian công cộng khác xung quanh Hồ Gươm theo chỉ đạo của Trung ương, Thành ủy, UBND TP.
Tòa nhà “Hàm cá mập” được xây dựng từ năm 1991 đến 1993, trước đó, nơi đây là tòa nhà điều hành của xí nghiệp xe điện Hà Nội, được xây mới và thay đổi công năng làm kinh doanh dịch vụ. Công trình có mặt trước hướng ra quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục, mặt trái hướng ra Hồ Gươm, mặt phải giáp với phố Cầu Gỗ; với quy mô 6 tầng trên diện tích xây dựng 310m2, trong đó tầng 2 đến tầng 6 là các nhà hàng, quán cà phê. Từ khi đưa vào sử dụng đến nay, kiến trúc của công trình nhận nhiều ý kiến trái chiều từ chuyên gia quy hoạch đô thị, kiến trúc và cả báo chí, dư luận. Tên chính thức của công trình là “Trung tâm thương mại số 7 Đinh Tiên Hoàng”, nhưng ngay từ khi hoàn thành và đưa vào sử dụng, không biết từ đâu có ý kiến ví von rằng công trình trông như cái “hàm cá mập”, và thế là công trình “chết” với cái tên đó. Cho tới nay, không ai gọi nó bằng cái tên chính thức, mà chỉ nói là nhà “Hàm cá mập” thì ai cũng hiểu, cũng biết là ở đâu. Tòa nhà “Hàm cá mập” có một vị trí đắc địa ở khu vực trung tâm của trung tâm Hà Nội, có view Hồ Gươm đẹp nhất trong các công trình dịch vụ quanh Hồ Gươm. Vì lẽ đó, nơi đây là điểm đến, điểm hẹn quen thuộc của người dân Hà Nội cũng như khách du lịch. Thế nên, dù nó là “Hàm cá mập”, dù nó có bị chê xấu xí thì nó vẫn là một nơi chốn quen thuộc, là không gian quen thuộc của rất nhiều người Hà Nội. Việc phá dỡ tòa nhà này cơ bản được giới chuyên môn và dư luận đồng tình, vì nó không có nhiều giá trị kiến trúc và lịch sử, và để đẹp thêm cho Hồ Gươm. Nhưng nó đã trở thành quen thuộc nên khi không còn nữa để lại những tiếc nuối cũng là điều dễ hiểu.
Việc phá bỏ công trình này để xây công trình khác, hay xây công trình mới trên nền công trình cũ là điều bình thường, ở nơi nào cũng vậy, thời nào cũng vậy. Cũng vào giai đoạn xây công trình “Hàm cá mập” – năm 1993, Hà Nội cũng có một cuộc “cách mạng” nho nhỏ khi phá bỏ Nhà tù Hỏa Lò để xây dựng một công trình mới mang chức năng khách sạn và văn phòng – Trung tâm thương mại (công trình Tháp Hà Nội). Tất nhiên, trong một xã hội mới, phát triển thì việc để một nhà tù giữa Thủ đô là không nên, việc phá bỏ là có lý. Nhưng nhà tù Hỏa Lò là một di tích lịch sử, việc bảo tồn là đúng đắn và cần thiết. Và kết quả là một phần công trình cũ được giữ lại, bảo tồn làm di tích lịch sử, còn phần lớn diện tích dỡ bỏ xây công trình mới. Ở một góc độ nào đó, cách xử lý này cũng hợp lý, hợp tình.
Cũng bên Hồ Gươm như “Hàm cá mập”, có một công trình khác cũng bị phá bỏ để xây mới. Đó là công trình Bách hóa Tổng hợp Hà Nội, bị phá bỏ để xây dựng Tràng Tiền Plaza – một tổ hợp trung tâm thương mại hiện đại, vào năm 1996. Bách hóa Tổng hợp là một công trình thương mại có từ thời Pháp thuộc, được xây dựng vào đầu thế kỷ 20, nhưng qua những đổi thay cả về kiến trúc lẫn hoạt động thương mại, người dân Hà Nội quen với cái tên Bách hóa Tổng hợp hơn, trong những năm tháng bao cấp nhiều khó khăn. Bách hóa Tổng hợp bị phá dỡ cũng để lại nhiều lưu luyến về những kỷ niệm, ký ức một thời. Nhưng điều đó cũng qua nhanh bởi công trình mới có cấu trúc tương tự và chức năng cũng là thương mại, tạo nên một sự quen thuộc mới.
Việt Nam là đất nước có quá nhiều chiến tranh, từ nội chiến tới xâm lăng. Tính từ giữa thế kỷ 19, khi người Pháp chính thức tấn công xâm lược, thì mãi tới giữa thập niên 70 của thế kỷ 20 đất nước mới tạm bình yên. Chiến tranh làm đổ nát nhiều công trình, có những công trình hư hại được tu sửa, có công trình được phục dựng lại, có công trình được xây mới với công năng khác; cũng có những công trình đến giờ chỉ còn là phế tích. Trong thời kỳ thuộc Pháp, người Pháp đã xây dựng nhiều công trình kiến trúc có giá trị. Trong số đó, có nhiều công trình vẫn tồn tại và vẫn được sử dụng, nhưng cũng có công trình biến mất để lại nhiều nuối tiếc. Một trong những công trình đó là Nhà Đấu xảo Hà Nội. Hoàn thành và đi vào hoạt động năm 1902, công trình có quy mô lớn, kiến trúc đẹp, và là nhà triển lãm kinh tế lớn nhất Đông Dương thời bấy giờ. Trong Thế chiến lần thứ 2, vào thời kì phát xít Nhật chiếm đóng Việt Nam, tòa nhà bị bom Mỹ phá hủy hoàn toàn. Di tích còn lại là hai bức tượng sư tử bằng đồng nay đặt tại Liên Đoàn Xiếc Việt Nam trong khu vực công viên Thống Nhất. Và sau này, trên khu đất ấy, chính quyền mới đã xây dựng công trình mới là Cung Hữu Nghị Việt Xô có mặt chính nhìn ra đường Trần Hưng Đạo, hoàn thành vào năm 1985.
Cũng bởi chiến tranh, bao nhiêu công trình trên khắp dải đất hình chữ S này đã bị tàn phá, trong đó có nhiều công trình di sản. Huế là một ví dụ điển hình. Ai đã từng đến Huế, vào Kinh thành, vào Đại Nội (Hoàng cung) sẽ thấy vô cùng xót xa trước những công trình đổ nát, nhiều công trình chỉ còn nền móng. Các công trình trong Đại Nội bị phá hủy nhiều nhất trong 3 cuộc chiến: Đó là sự kiện thất thủ Kinh thành năm 1885, cuộc chiến Việt – Pháp năm 1947 và cuộc chiến Mậu Thân 1968. Trong Tử Cấm thành (bên trong Đại Nội), từ ngoài vào trong, các kiến trúc chính: Điện Cần Chánh, Càn Thành, cung Khôn Thái, lầu Kiến Trung, cùng hàng chục công trình phụ trợ khác bị phá hủy hoàn toàn. Điều đáng mừng, là trong năm 2024, Dự án phục dựng Lầu Kiến Trung – công trình trong Tử Cấm thành xây thời vua Khải Định, đã hoàn thành, đem lại sức sống mới cho Tử Cấm thành, vốn nhiều năm qua hầu như chỉ là bãi đất trống. Trước đó, Lầu Kiến Trung chỉ còn phần nền móng với bậc cấp, và việc phục dựng công trình này là cả một sự kỳ công to lớn, và số phận công trình này quả là may mắn. Hiện Trung tâm bảo tồn Di tích Cố đô Huế đang nỗ lực để tái thiết, phục dựng những công trình trong Đại Nội, song có quá nhiều khó khăn trên nhiều phương diện nên có lẽ hàng chục năm nữa mới có thể thấy một Đại Nội có diện mạo tráng lệ như thời hoàng kim triều Nguyễn.
Cũng ở Huế, cũng bởi chiến tranh, cầu Trường Tiền – Cây cầu đầu tiên bắc qua sông Hương (xây dựng 1897-1899), biểu tượng xứ Huế đã hai lần bị sập, vào năm 1947 và 1968. Nếu tính lần sập bởi cơn bão năm 1904 thì cầu đã bị sập 3 lần. Nhưng may mắn thay, qua những bể dâu và thăng trầm thời cuộc, cây cầu tuyệt đẹp này đã được tu sửa, bảo tồn và đến giờ vẫn hiện diện rạng ngời, làm duyên trên dòng sông Hương, làm đẹp thêm đất cố đô và vẫn giữ chức năng nguyên thủy của nó là giao thông. Dù Huế giờ có nhiều cây cầu hiện đại hơn, rộng, lớn hơn, thì cầu Trường Tiền vẫn là cây cầu đẹp nhất, gắn bó gần gũi nhất với người dân xứ Huế.
Cũng được người Pháp xây dựng cùng thời với cầu Trường Tiền ở Huế, cầu Long Biên – cây cầu đầu tiên bắc qua sông Hồng ở Hà Nội (xây dựng 1899-1902) lại có một số phận khác. Cây cầu cũng bị đánh sập bởi bom Mỹ trong chiến tranh vào năm 1965-1968 và 1972, nhưng không thể hồi sinh nguyên vẹn như ban đầu. Cầu đã mất 7 nhịp dàn thép và nhiều trụ nguyên bản. Cầu được tu sửa theo kiểu “vá víu” thời chiến tranh và sau này vẫn vậy. Cây cầu già nua hơn 100 năm tuổi mang trong mình vết thương chiến tranh ngày nay vẫn tận tụy, bền bỉ nối đôi bờ cho những chuyến tàu và người qua lại. Đã có nhiều những dự án về cầu Long Biên liên quan đến quy hoạch giao thông của Thủ đô, nhưng đến tận bây giờ người ta vẫn chưa biết số phận cầu Long Biên rồi sẽ ra sao?
Một cây cầu khác, là cầu Ghềnh ở Biên Hòa, Đồng Nai, hoàn thành xây dựng năm 1904 lại bị một… tai nạn thời bình. Ngày 20/3/2016, tàu kéo sà lan 800 tấn chạy từ hạ nguồn lên thượng nguồn sông Đồng Nai đã đâm vào trụ giữa (trụ T2) của cầu Ghềnh làm trụ này bị phá hủy hoàn toàn, đồng thời cũng làm cho hai nhịp số 2 và số 3 sập xuống nước. Đường sắt tê liệt. Và cầu Ghềnh được xây mới. Vậy là cây cầu hơn 100 năm đã kết thúc sứ mệnh lịch sử. Vấn đề là những cấu kiện của cây cầu cũ xử lý thế nào? Có ý kiến đề xuất đưa về bảo tàng tỉnh, nhưng ngay lập tức có ý kiến phản biện rằng kích thước của các cấu kiện này quá lớn, không thể để trong khuôn viên bảo tàng. Không biết đến giờ cây cầu cũ được chuyển về đâu?
Nói nốt chuyện cầu, là cây cầu Bình Lợi ở Sài Gòn, cũng là cầu thép và cầu đường sắt, cũng do người Pháp xây, hoàn thành năm 1902. Đây là cây cầu đầu tiên bắc qua sông Sài Gòn. Suốt hơn 100 năm tồn tại, cầu may mắn không bị bom đạn chiến tranh như cầu Trường Tiền, cầu Long Biên hay tai nạn giao thông như cầu Ghềnh. Nhưng cầu không đáp ứng được nhu cầu hiện tại, nên một cầu đường sắt Bình Lợi mới đã được xây thay thế. Cầu Bình Lợi cũ chính thức ngừng hoạt động vào năm 2019 và được tháo dỡ vào năm 2020. Theo đó, hai nhịp cầu sắt cũ và tháp canh cầu phía bờ Thủ Đức được giữ lại để bảo tồn nguyên trạng. Cùng với cầu đường sắt mới, một cầu Bình Lợi đường bộ cũng được xây dựng song song kế bên để đáp ứng nhu cầu giao thông. Nhưng cũng không rõ những cấu kiện của cầu đường sắt Bình Lợi cũ khi tháo ra có được đưa vào bảo tàng hay không?
Quay lại chuyện chiến tranh. Công trình Dinh Độc Lập ở Sài Gòn – TP. HCM hầu như ai cũng biết. Nhưng không phải ai cũng biết là trước đó, ở chính nơi này đã có một công trình quy mô và có chức năng tương tự, đó là Dinh Norodom. Đây là dinh thự làm việc của Thống đốc Nam Kỳ và sau là Toàn quyền Đông Dương – khi đó Sài Gòn là Thủ đô của Liên bang Đông Dương. Công trình được xây dựng từ năm 1868-1873. Vì công trình nằm ở đầu đại lộ Norodom (tên Quốc vương Campuchia) nên dinh cũng được gọi là Dinh Norodom. Ngày 07/9/1954, trước khi rút quân khỏi Việt Nam, tướng Paul Ély bàn giao Dinh Norodom cho chính quyền Quốc gia Việt Nam. Năm 1955, Ngô Đình Diệm phế truất Quốc trưởng Bảo Đại và thành lập Việt Nam Cộng hòa. Ông lấy Dinh Norodom làm dinh Tổng thống Việt Nam Cộng hòa và đổi tên thành Dinh Độc Lập. Vào ngày 27/2/1962, hai phi công Quân lực Việt Nam Cộng hòa là Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc đã lái hai máy bay AD6 ném bom tấn công, làm sập toàn bộ cánh trái của dinh. Tổng thống Ngô Đình Diệm sau đó đã cho phá dỡ dinh để xây Dinh Độc Lập mới trên nền cũ theo đồ án của KTS Ngô Viết Thụ. Có lẽ không cần nói nhiều nữa về cái hay, cái đẹp của công trình này. Đó là một niềm tự hào của kiến trúc Sài Gòn và cả Việt Nam; đưa tên tuổi KTS Ngô Viết Thụ lên tầm thế giới. Việc một công trình mới thay thế công trình cũ ở câu chuyện này là bất khả kháng, nhưng nó là một kết quả tốt đẹp xứng đáng với sự thay thế đó.
Cũng có thể kể thêm một trường hợp tương tự, đó là công trình Ngọ Môn ở Hoàng thành – Kinh thành Huế. Ngược dòng thời gian về thế kỷ 19, Kinh thành Huế được vua Gia Long cho xây dựng từ năm 1805, và hoàn thành năm 1832 dưới thời vua Minh Mạng. Song song với việc xây dựng Kinh thành cũng là việc xây dựng Hoàng thành (còn gọi là Đại Nội) bên trong Kinh thành. Ngọ Môn là cổng chính phía Nam vào Hoàng thành, được xây dựng năm 1833, khi vua Minh Mạng cho quy hoạch lại mặt bằng và nâng cấp tổng thể Hoàng cung triều Nguyễn. Trước đó, dưới thời Gia Long, vị trí của Ngọ Môn là một cổng có tên là Nam Khuyết Đài. Có lẽ, cái cổng này không có gì đặc sắc nên sử sách hầu như không nhắc tới. Nhưng công trình Ngọ Môn do vua Minh Mạng cho xây dựng thì là một tuyệt tác của kiến trúc cổ Việt Nam và là biểu tượng của kiến trúc cung đình triều Nguyễn. Gần 200 năm tồn tại, qua cả thời gian khắc nghiệt và binh biến khói lửa chiến tranh, Ngọ Môn vẫn tỏa sáng rực rỡ và là một trong những hình ảnh tiêu biểu của cố đô Huế, là niềm tự hào của kiến trúc – xây dựng Việt Nam thời phong kiến.
Cũng là một sự thay thế, nhưng số phận công trình Ga Hà Nội lại… kỳ cục và làm nhiều người tiếc nuối. Công trình được hoàn thành xây dựng năm 1902, cùng với cầu Long Biên và tuyến đường sắt đi Hải Phòng. Đây là một công trình có kiến trúc rất đẹp. Năm 1972, nhà ga đã bị trúng một quả bom lớn của không quân Mỹ, khối nhà đại sảnh nơi treo chiếc đồng hồ lớn của nhà ga bị đánh sập hoàn toàn. Sau đó người ta xây lại khối kiến trúc này với một phong cách mới kiểu Xô Viết không ăn nhập gì với phần kiến trúc nhà ga cũ kiểu cổ điển, trông rất khiên cưỡng và kệch cỡm. Và cho đến giờ sự “chắp vá” ấy vẫn tồn tại, không ai hiểu tại sao lại làm như vậy? Trong quy hoạch tương lai của đường sắt Hà Nội, nhà ga mới sẽ di chuyển ra ngoài nội đô, có ý kiến đề xuất biến nhà ga cũ thành bảo tàng ngành đường sắt. Không rõ rồi số phận công trình sẽ như thế nào, và người ta có phục dựng lại khối kiến trúc sảnh như nguyên bản hay không?
Cuối phần này, xin nói về một câu chuyện mà số phận liên quan tới 3 công trình. Đó là câu chuyện Thành Điện Hải ở Đà Nẵng. Đây là một công trình phòng thủ quân sự quan trọng của Đà Nẵng được xây năm 1823 dưới triều vua Minh Mạng nhà Nguyễn. Thành Điện Hải gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp buổi đầu của danh tướng Nguyễn Tri Phương và quân dân Đà Nẵng. Sau khi chiếm Đà Nẵng, quân Pháp đã phá hủy hoàn toàn các công trình trong thành và xây các công trình mới phục vụ quân sự. Qua những thăng trầm thời gian và qua nhiều chế độ, Thành Điện Hải đã trải qua nhiều biến cố, nhiều công trình được xây dựng trong này rồi lại bị đập bỏ và xây dựng công trình khác. Gần đây nhất là công trình Bảo tàng Đà Nẵng xây dựng năm 2005. Đây là một công trình kiến trúc mang phong cách hiện đại. Tới năm 2017, Thành Điện Hải – công trình có ý nghĩa lịch sử đặc biệt này được công nhận là Di tích Quốc gia đặc biệt. Khi đó, người ta mới té ngửa ra là công trình Bảo tàng Đà Nẵng nằm trong Thành Điện Hải là xâm phạm vùng lõi di tích theo Luật Di sản (Thành Điện Hải được công nhận là di tích Quốc gia năm 1988). Vậy là một kế hoạch di dời bảo tàng được tiến hành. Và cuối cùng, Bảo tàng Đà Nẵng được di dời về công trình Pháp cổ bên bờ sông Hàn, nơi trước đó là trụ sở HĐND, UBND thành phố Đà Nẵng. Vậy là một công trình cũ mang chức năng mới, số phận mới. Nhưng tòa nhà Bảo tàng nằm trong Thành Điện Hải có phá dỡ không? Và người ta sẽ xây cái gì thay thế vào trong đó, để công trình Thành Điện Hải xứng đáng là Di tích Quốc gia đặc biệt?
Những câu chuyện như trên còn rất nhiều. Trăm năm mấy cuộc bể dâu? Biết bao sự thay đổi của chính trị, xã hội, của thái độ và ý chí con người, biết bao thảm họa của thiên tai và chiến tranh đã làm thay đổi số phận những công trình. Những xét cho cùng, chẳng có gì là vĩnh cửu, cái gì cũng có tuổi thọ nhất định. Công trình kiến trúc cũng như những phận người, có cái mang lá số may mắn, và có những cái mang số phận hẩm hiu. Cuộc sống, xã hội thay đổi, sóng sau đè sóng trước như một lẽ hiển nhiên ở đời…
Cũ – mới và những toan tính
Có thể thấy, từ khi đổi mới, mở cửa, ngành xây dựng đất nước ta phát triển rất mạnh, đặc biệt từ đầu thế kỷ 21. Nhiều công trình xây mới trên đất mới, nhưng cũng không ít các công trình xây mới trên nền cũ, thay thế kiến trúc cũ, nhất là trong nội đô các thành phố lớn. Trong số đó, có nhiều công trình mới là công trình thương mại; và trong số bị đập bỏ, thay thế có nhiều công trình cũ, cổ có giá trị kiến trúc và lịch sử, phản ánh quá trình phát triển đô thị. Có những công trình bị xuống cấp, hư hỏng phải đập bỏ để thay mới; có nhiều công trình công nghiệp phải di dời khỏi nội đô tạo nên khu đất vàng ở vị trí cũ, và cũng có những công trình được thay mới để mang lại hiểu quả kinh tế hơn. Cũ – mới, đó cũng là những toan tính của những nhà hoạch định chiến lược phát triển, các chuyên gia quy hoạch cũng như các nhà đầu tư. Nhưng rõ ràng câu chuyện bảo tồn và phát triển luôn chứa đựng những xung đột và nhiều mâu thuẫn.
Năm 2009, người viết bài này trong một lần đi dạo ven sông Hàn ở Đà Nẵng, tình cờ thấy một công trình kiểu nhà thủy tạ ở sát bờ sông, có kiến trúc mang hình một con tàu. Vào thời điểm ấy, công trình đã bỏ hoang không hoạt động và có dấu hiệu hư hỏng, xuống cấp. Công trình trông khá quen, và sau đó, lục tìm trí nhớ cùng tài liệu, người viết đã tìm thấy lai lịch của nó. Đó là công trình “Nhà hàng Hana – Kim Đình Đà Nẵng”, xây dựng năm 1995; và công trình này đã đoạt giải Ba Giải thưởng Kiến trúc Quốc gia năm 1996. Nhưng có lẽ, công trình đã trở nên lạc hậu, nhất là bởi không gian kiến trúc và vật liệu nên nó đã ngừng hoạt động để chờ một sự thay đổi, và cũng có thể nó đã vắng khách không còn hiệu quả kinh tế nữa. Vào năm 2011, công trình trên không còn nữa, nó đã bị phá dỡ. Thay vào vị trí đó, hoặc ở gần đó cũng là một công trình nhà hàng – café, nhưng có kiến trúc mới hiện đại hơn, thoáng mở hơn, tinh tế bay bổng hơn và đặc biệt là vật liệu mới làm bắt mắt hơn. Công trình làm thu hút khá đông khách du lịch và người dân thành phố. Như vậy, một sự “toan tính” – thay mới ở đây đã thành công.
Trở lại Thủ đô Hà Nội, để nói về một công trình có vị trí, quy mô và ý nghĩa đặc biệt – Đó là công trình Nhà Quốc hội, được hoàn thành xây dựng năm 2014, trên nền của công trình Hội trường Ba Đình cũ (1963), thuộc Quảng trường Ba Đình – trung tâm chính trị của đất nước. Thực tế, trước đó, trong quy hoạch của Hà Nội khu vực Tây Hồ Tây, các nhà quy hoạch đã dành một khu đất để xây Nhà Quốc hội. Nhưng cuối cùng, các nhà lãnh đạo cấp cao đã quyết định xây Nhà Quốc hội thay thế vào vị trí của Hội trường Ba Đình. Có lẽ đó là một quyết định rất khó khăn với nhiều toan tính thiệt hơn, hoàn toàn không phải yếu tố kinh tế. Bởi việc phá bỏ công trình Hội trường Ba Đình và xây Nhà Quốc hội mới tại đó gặp nhiều ý kiến phản đối của các chuyên gia. Thứ nhất, Hội trường Ba Đình là công trình lịch sử gắn liền với nhiều sự kiện trọng đại của đất nước trong thời đại Hồ Chí Minh; thứ hai, diện tích xây dựng tại đây không phù hợp với công trình này – mật độ xây dựng sẽ rất cao và quy mô, chiều cao công trình có thể ảnh hưởng tới cảnh quan, không gian kiến trúc của khu vực. Nhưng rồi, công trình Nhà Quốc hội là công trình chính trị quan trọng, nhất thiết phải hiện diện ở Quảng trường Ba Đình. Dù không thật hoàn mỹ (do mật độ xây dựng cao, thiếu sân vườn, cây xanh và các hạng mục phụ trợ) song kiến trúc công trình Nhà Quốc hội mới đã thành công ở phương diện nào đó, khi đáp ứng được công năng và hình thức thẩm mỹ hài hòa với không gian Quảng trường Ba Đình. Và công trình cũng đã trở nên quen thuộc, là dấu ấn của một thời đại phát triển.
Nhà Quốc hội là một trường hợp ngoại lệ. Nhưng trong những năm gần đây, chúng ta có thể thấy nhiều các dự án, công trình thương mại mới thay thế công trình cũ – trong đó có những công trình di sản đô thị (dù có thể chưa được xếp hạng). Nhiều chuyên gia, nhà nghiên cứu văn hóa – đô thị, kiến trúc sư đã nêu lên ý kiến phản biện, nhằm giữ lại, bảo tồn những công trình kiến trúc có giá trị gắn với lịch sử đô thị. Không phải lúc nào việc nêu ý kiến phản biện cũng thành công, ngăn được những dự án thương mại mới xây thay thế. Nhưng nhìn chung, có thể thấy được thái độ của những chuyên gia, thay mặt cho cộng đồng nêu lên những suy nghĩ và tâm tư của họ, trong chuỗi thời gian dài của ký ức đô thị.
Thương xá TAX ở TP. HCM là một câu chuyện điển hình. Cũng như Bách hóa Tổng hợp ở Hà Nội, đây là công trình thương mại có từ cuối thế kỷ 19 thời Pháp thuộc. Công trình đã trải qua nhiều lần thay đổi về tên gọi, kiến trúc và hoạt động thương mại trong thời gian dài tồn tại. Công trình là một địa chỉ, một dấu ấn quen thuộc với người dân Sài Gòn, mang dấu ấn trong quá trình phát triển đô thị về mặt thương mại. Bản thân kiến trúc và nội thất của công trình cũng rất đẹp, hài hòa với cảnh quan. Ngày 25/9/2014, Thương xá TAX chính thức đóng cửa để phá tòa nhà nhằm xây một dự án cao ốc 40 tầng tại khu đất, dự kiến tên là Satra Tax Plaza. Trước đó, khi nghe tin Thương xá TAX sẽ bị phá dỡ, hàng ngàn lượt người đã đến công trình này để mua sắm và chụp ảnh lưu lại kỷ niệm. Rất nhiều người Sài Gòn, nhiều chuyên gia văn hóa – kiến trúc, cả các tiểu thương kinh doanh trong Thương xá TAX mong muốn giữ lại công trình này, nhưng không thể. Bài toán xây công trình 40 tầng thay cho công trình 4 tầng quá đơn giản về hiệu suất và lợi nhuận. Và ngày 12/10/2016, quá trình dỡ bỏ Thương xá TAX được bắt đầu tiến hành, chấm dứt số phận một công trình hơn 100 năm tuổi.
Ngược lên cao nguyên Đà Lạt, công trình Dinh Tỉnh trưởng nằm trên ngọn đồi rộng 5 ha, cao 1.500 m so với mực nước biển (gọi là đồi Dinh), thuộc khu trung tâm Hòa Bình, TP Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Dinh được xây dựng từ khoảng năm 1910 với lối kiến trúc Pháp kết hợp bản địa, gồm 2 tầng lầu, 1 tầng trệt; gắn với lịch sử 130 năm hình thành phát triển của TP Đà Lạt. Đây là một công trình kiến trúc đẹp, hài hòa với cảnh quan và vị trí có tầm nhìn rộng lớn. Tòa nhà là nơi sinh sống và làm việc của thị trưởng Đà Lạt kiêm tỉnh trưởng Tuyên Đức trước đây. Do đó người dân địa phương vẫn quen gọi là Dinh Tỉnh trưởng. Công trình cũng trải qua những thăng trầm thời cuộc, được sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau nhưng đến những năm gần đây thì bỏ hoang không có người trông coi và thuộc nhà nước quản lý. Năm 2023, một dự án xây dựng công trình khách sạn – thương mại ở đây đã được đưa ra, can thiệp thô bạo đến công trình Dinh Tỉnh trưởng (di dời công trình) và đồi Dinh, gần như xóa bỏ hết những mảng xanh của đồi – cũng là mảng xanh cuối cùng của khu Hòa Bình, gia tăng mật độ xây dựng làm không gian đô thị thêm ngột ngạt. Dự án đã vấp phải sự phản đối, phản ứng mạnh mẽ của giới chuyên môn và báo chí, dư luận. Cuối cùng, tháng 11/2023, Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng Trần Văn Hiệp kết luận dừng phương án dời Dinh Tỉnh trưởng ở Đà Lạt để đánh giá lại và có phương án tốt hơn. Ở phạm vi rộng hơn, UBND tỉnh Lâm Đồng kết luận chưa thông qua quy hoạch chi tiết 1/500 khu trung tâm Hòa Bình – Đà Lạt.
Mỗi công trình có một chức năng, vai trò và số phận khác nhau. Cũng khó thống kê hết được bao nhiêu công trình đã bị phá hủy, bao nhiêu công trình bị đập đi xây mới. Lịch sử rất dài. Nhưng cũng có những câu chuyện cũ – mới lại mang sắc thái tự nhiên đến hiển nhiên, không bởi một quyết định hành chính nào, không có sự toan tính nào. Đó là câu chuyện phố cổ Hà Nội và phố cổ Hội An. Phố cổ Hà Nội còn gần như nguyên vẹn đến những năm 80 của thế kỷ trước, nhưng chỉ sau khi mở cửa kinh tế thị trường, tất cả đã thay đổi nhanh chóng, bị phá vỡ và trở thành hỗn tạp; mà sau đó, bao nhiêu biện pháp hành chính và biện pháp chuyên môn nhằm bảo tồn cũng không cứu nổi. Phố cổ Hà Nội chỉ còn trong tranh Bùi Xuân Phái, trong thơ – nhạc, và trong những tiếc nuối. Ngược lại, phố cổ Hội An (Quảng Nam) may mắn khi chiến tranh bỏ qua, và hình như miễn nhiễm với thời cuộc, với kim tiền, phố cổ đã ngủ quên nên… vẫn là phố cổ. Và Hội An may mắn nữa được quản lý bởi những nhà lãnh đạo có tâm, có tầm nhìn nên từ giấc ngủ quên đã choàng tỉnh để rạng rỡ thành di sản thế giới. Âu đó cũng là số phận!
Vùng đất nào, đô thị nào cũng có lịch sử, và điều phản ánh rõ nét nhất chính là kiến trúc. Đó là ký ức đô thị, là ký ức thị dân. Những công trình thương mại xây dựng là điều cần thiết, nhưng không thể vì thế mà xóa bỏ những công trình văn hóa – lịch sử, xóa bỏ ký ức đô thị. Công trình kiến trúc cũng có tuổi thọ, không thể tồn tại mãi, nhưng hãy để chúng sống xứng đáng với vai trò, chức năng và danh phận. Cần phải có những thiết chế pháp lý cụ thể, mới có thể bảo tồn và phát huy giá trị của những công trình kiến trúc có giá trị, để trường tồn, không chỉ của một đô thị, mà là cả gương mặt Quốc gia.
KTS Nguyễn Trần Đức Anh
(Bài đăng trên Tạp chí Kiến trúc số 07-2025)